Biếng ăn ở trẻ - Nguyên nhân và phương pháp xây dựng thực đơn  
Quay lại Bản in Yahoo
Cỡ chữ
A. Định nghĩa Biếng ăn:

Khái niệm biếng ăn được quy ước là khi trẻ không chịu ăn đủ số lựơng thức ăn cần thiết do sự mất ngon miệng dẫn đến bữa ăn kéo quá dài (trên 30 phút thậm chí hàng tiếng).

Biếng ăn bản thân nó không hẳn là một bệnh mà thường là biểu hiện của nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do bệnh lý hay tâm lý.

Rất nghiêm trọng vì dễ gây ra một vòng xoắn: biếng ăn, ăn ít gây ra thiếu nhiều chất dinh dưỡng quan trọng như đạm, dầu mỡ, vitamin, các yếu tố vi lượng... dẫn đến hậu quả bị suy dinh dưỡng hoặc thiếu hụt các vi chất như khô mắt, thiếu máu…và càng làm cho trẻ biếng ăn hơn, suy dinh dưỡng nặng hơn. Trẻ suy dinh dưỡng lại dễ mắc các bệnh nhiễm trùng và trẻ lại càng biếng ăn hơn sau các đợt bệnh đó.


Biểu hiện của trẻ biếng ăn:

  • Số lượng thức ăn trẻ ăn vào trong ngày ít hơn nhu cầu theo tuổi.

  • Trẻ thường hay táo bón

  • Số lượng phân ít hơn bình thường

  • Phát triển cân nặng của trẻ chậm hơn bình thường hoặc không tăng cân, có khi còn giảm cân.

Nguyên nhân gây biếng ăn có thể do:

  • Tình trạng nhiễm trùng (dẫn tới ức chế các enzym tiêu hoá) hay gặp trong viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm tai giữa, tiêu chảy...

  • Do đau trong viêm loét tại chỗ niêm mạc lưỡi, miệng, họng

  • Do thiếu vitamin A, B, C, vi lượng: Kẽm....(vì những yếu tố này tham gia hình thành các men tiêu hoá và quá trình chuyển hoá, hấp thu thức ăn

  • Biểu hiện của các bệnh toàn thân như thiếu máu thiếu sắt, suy dinh dưỡng, còi xương…

  • Nhiễm ký sinh trùng đường ruột: như giun đũa, giun móc, giun kim.. thường chán ăn và gầy yếu xanh xao.

  • Thức ăn không hợp khẩu vị, không phù hợp lứa tuổi. Trẻ hay ăn uống vặt (bú vặt) và không được ăn đúng bữa.

  • Do tâm lý trong những trường hợp không khí ăn quá căng thẳng, bi o ép quá thô bạo. Người ta ước tính có khoảng 5% trẻ sinh ra đã lười bú, nhưng đến khi 2-3 tuổi có đến 30-40% trẻ biếng ăn. Điều này chứng tỏ nguyên nhân phần nhiều do môi trường sống của trẻ gây ra.

  • Hậu quả quan trọng của biếng ăn không chỉ là tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em ngày càng nặng và kéo dài, mà còn đồng thời ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý trẻ do bị la mắng nhiều, và tâm lý cha mẹ do lo lắng, đặc biệt những trường hợp mẹ đang nuôi con bú nếu lo lắng sẽ ảnh hưởng xấu trực tiếp đến lượng và chất lượng sữa, cũng như hòa khí gia đình.

B. Điều trị cho trẻ biếng ăn:

1. Nguyên tắc điều trị:

  • Cần thăm khám kỹ để phát hiện hoặc loại trừ nguyên nhân bệnh lý của biếng ăn. Chú ý tìm những nguyên nhân hay gặp như biểu hiện nhiễm trùng, viêm loét tại chỗ họng miệng, mọc răng, trẻ có các biểu hiện đặc trưng thiếu vitamin B1, thiếu kẽm, thiếu máu… không? Nếu có cần điều trị ngay những nguyên nhân đó.

  • Tuỳ theo triệu chứng bệnh mà có thể sử dụng thuốc theo điều trị của bác sỹ.

  • Trong những trường hợp không có nguyên nhân tổn thương bệnh lý có thể bổ sung thêm các men tiêu hoá enzym và vitamin, vi lượng có vai trò kích thích tiêu hoá, khẩu vị theo hướng dẫn của thày thuốc.

  • Quá trình điều trị đòi hỏi rất tinh tế và phức tạp. Tuyệt đối không nên tạo ra ngay một sự thay đổi quá lớn và không nên uống quá nhiều loại thuốc để điều trị triệu chứng lâm sàng. Bước đầu chỉ nên có một sự can thiệp nhỏ, hướng dẫn tỷ mỉ cho bà mẹ cách áp dụng các tiến trình chăm sóc và nuôi dưỡng tại nhà. 

2. Phương pháp xây dựng thực đơn cho trẻ biếng ăn.

2.1. Cách cho ăn:

Trẻ nhỏ còn bú mẹ: cho trẻ bú nhiều lần hơn nếu thời gian mỗi lần bú ít hơn bình thường. Nếu trẻ không ngậm bú được, người mẹ cần vắt sữa vào cốc rồi dùng thìa cho trẻ uống.

Trẻ lớn hơn đã ăn bổ sung:


  • Nên cho ăn các loại thức ăn mềm, đa dạng, dễ tiêu hoá và chia thành bữa nhỏ.

  • Cần thay đổi thức ăn và cho trẻ ăn những loại thức ăn trẻ tỏ ra thích hơn để khuyến khích trẻ ăn được nhiều, kích thích sự thèm ăn.

  • Cần tạo tâm lý thoải mái, vui thú nhất là tâm lý ganh đua khi ăn sẽ kích thích các tuyến tiêu hoá, hoật động, tăng bàI tiết men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng hơn.

2.2. Lựa chọn những thực phẩm nên dùng trong khẩu phần trẻ biếng ăn:

  • Cần chú trọng bồi dưỡng bằng các loại thức ăn giàu dinh dưỡng giúp trẻ nhanh bắt kịp tăng trưởng

  • Các loại thực phẩm giàu chất đạm (đặc biệt đạm nguồn gốc động vật): sữa mẹ, sữa bò, sữa đậu tương, trứng, thịt, cá

  • Sữa:  Tốt nhất là trẻ được bú sữa mẹ, trong trường hợp không thể

  • Trẻ trên 6 tháng tuổi có thể thay thế một phần sữa bổ sung bằng sữa chua nếu trẻ thích vị sữa chua ngày từ 1 - 2 cốc (không ăn lúc đói).

  • Những trẻ > 6 tháng biếng ăn sữa cần tăng cường thêm những chế phẩm của sữa như format mềm rất dầu canxi và năng lượng.

  • Nếu có điều kiện kinh tế và mẹ ít hoặc không có sữa nên dùng cho trẻ sữa bột công thức có hàm lượng năng lượng cao để đảm bảo được năng lượng và thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần với số lượng ăn được ít hơn yêu cầu (1Cal/1ml sữa).

  • Cho trẻ uống thêm sữa dầu 5%: 100ml sữa bột công thức trộn thêm 1 thìa cà phê dầu thực vật 5ml (dầu ăn sống).

  • Trứng: là thức ăn bổ, tốt cho trẻ em, trong trứng có nhiều chất đạm, chất béo, muối khoáng và các loại vitamin. Chất đạm của trứng có đầy đủ các acid amin cần thiết ở tỷ lệ cân đói do đó trẻ dễ hấp thu. Lòng đỏ trứng về giá trị dinh dưỡng có nhiếu chất đạm, chất béo, vitamin và muối khoáng nên lòng đỏ tốt hơn lòng trắng do vậy trẻ dưới 1 tuổi chỉ nên ăn lòng đỏ. Lòng trắng trứng thành phần chủ yếu là đạm nên cho trẻ trên 1 tuổi ăn cả quả trứng.

  • Thịt là thực phẩm dinh dưỡng cao (thịt gà - 22,4% đạm, thịt bò – 21%, thịt nạc thăn – 19% đạm, khi trẻ trên 1 tuổi có thể dùng thịt nạc vai, thịt mông sấn để tăng thêm năng lượng cho trẻ.

  • Cá tôm cua cũng rất nên tăng cường cho trẻ ăn vì chúng chứa nhiều chất đạm (16-20%) lại dễ tiêu hoá hơn đạm thịt. Ngoài ra còn chứa nhiều can xi, phốt pho giúp trẻ không bị còi xương. (Chú ý trẻ khoảng từ 7 tháng tuổi có thể ăn được các loại thực phẩm này nhưng phảI tập ăn sau đạm trứng, thịt và tập dần từ ít đến nhiều).

  • Ở những gia đình không có điều kiện cho trẻ ăn nhiều đạm trứng, thịt thì có thể thay thế bằng đậu tương, đậu xanh, lạc là thực phẩm thực vật cung cấp chất đạm, béo giá thành rẻ. Nhưng trong những trường hợp này khuyến nghị cho nhu cầu protein ăn vào cần được đặt cao hơn một chút (do đạm thực vật tỷ lệ đạm thường thấp hơn và khả năng hấp thu đối với hệ tiêu hoá người cũng thấp hơn so với đạm động vật).

Các loại thực phẩm giàu chất béo:

  • Chất béo rất nguồn năng lượng quan trọng từ thực phẩm, với cùng một hàm lượng nó cung cấp hơn gấp đôi năng lượng so với chất đạm và chất bột: ngoài ra nó giúp hấp thu các vitamin tan trong dầu (vitamin A, D, E, K rất cần cho phát triển xương, mắt) và cung cấp các acid béo no cần thiết. Do vậy, cần đảm bảo ăn đủ lượng dầu, mỡ cho trẻ để đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng theo lứa tuổi của trẻ.

  • Nên cho trẻ ăn cả dầu thực vật lẫn mỡ động vật đặc biệt là mỡ gà vì có chứa tới 18% acid béo chưa no rất tốt cho sự hấp thu của trẻ, bên cạnh đó còn có chứa những acid béo no cần cho chuyển hoá của trẻ.

Các thực phẩm giàu glucid:

  • Gạo, mì: Với lượng lớn trong khẩu phần ăn đóng vai trò quan trọng trong cung cấp năng lượng.

  • Ngoài ra cần chú ý cho trẻ uống đủ nước, ăn đủ rau, hoa quả tươi để cung cấp đủ các vitamin, chất xơ và các yếu tố vi lượng.

2.3. Để giúp hệ tiêu hoá trẻ làm việc dễ dàng hơn có thể hỗ trợ bằng:

Sử dụng bột có thêm thành phần enzym hoặc dùng nước giá đỗ sống để giúp tăng khả năng tiêu hoá thức ăn và hoá lỏng thức ăn 2 – 3 lần (đặc biệt cần cho trẻ kém khả năng ăn bột/cháo đặc so với lứa tuổi).

2.4. Những sai lầm các bà mẹ hay mắc phải trong việc thực hiện chế độ ăn của trẻ biếng ăn:

  • Không tăng cường số bữa ăn cho trẻ mặc dù mỗi bữa trẻ chỉ ăn rất ít hoặc bỏ ăn. Nấu loãng hơn bình thường (cho ít chất đạm, dầu mỡ hơn bình thường) khiến cho trẻ đã ăn ít hơn về lượng lại càng bị thiệt thòi về chất.

  • Không cho hoặc cho quá ít dầu mỡ vào bát bột, cháo của trẻ gây thiếu năng lượng khẩu phần cho trẻ.

  • Không cho trẻ ăn cá tôm cua vì sợ trẻ tiêu chảy, hoặc khi trẻ có nhiễm khuẩn ho hay tiêu chảy: Chỉ trong những trường hợp cá tôm cua là nguyên nhân gây tiêu chảy như một biểu hiện của bệnh dị ứng ở một số cơ địa dị ứng đồ tanh (tỷ lệ rất thấp).

  • Cho trẻ ăn các thực phẩm không nên dùng là: những thực phẩm nguyên hạt, khó tiêu (như ngô..), thấp năng lượng mà chiếm dung lượng lớn như miến, khoai..Trẻ không táo bón nhưng vẫn trộn quá nhiều đậu xanh, sen …trong bột xay của trẻ, hoặc cho quá nhiều rau xanh trong bữa bột/cháo gây thấp năng lượng khẩu phần.

Nguồn: Viện Dinh dưỡng

Cập nhật: 21/04/2013
Lượt xem: 13869
Lên trên
Đánh giá dinh dưỡng
( Cho người trưởng thành )
Cân nặng
kg
Chiều cao
m
Kết quả B.M.I
Đánh giá
Mặt trời bé thơ - Viện Dinh dưỡng (NIN)
Địa chỉ: 48B, Tăng Bạt Hổ, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: (84-4) 3971 7090 - Fax : (84-4) 3971 7885 - Email: ninvietnam@viendinhduong.vn
© 2011 mattroibetho.vn. Số đăng ký 180/GP-TTĐT. Cấp ngày 10/10/2011 - Thiết kế website bởi BICWeb.vn™