Nuôi con khỏe mạnh, thông minh là niềm vui, hạnh phúc của mỗi người mẹ, mỗi gia đình và là trách nhiệm thiêng liêng đối với giống nòi, đất nước.
Muốn con khỏe mạnh, mỗi người mẹ cần biết chăm sóc sức khỏe cho mình, đặc biệt trong thời kỳ có thai, cho con bú vì sức khỏe của người mẹ trong thời kỳ này có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển và sức khỏe của đứa con trong bụng hay đang được nuôi con bằng sữa mẹ.
Trước hết, để có một gia đình hạnh phúc, cần thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Nuôi được một đứa con nên người rất công phu, tốn kém, cho nên phải tính toán, cân nhắc kỹ trước khi định có con. Trong tình hình kinh tế hiện nay, mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến 2 con. Không nên có con quá sớm, trước 22 tuổi vì đẻ sớm quá cơ theer người mẹ chưa phát triển đầy đủ, hoàn thiện. Không nên sinh quá muộn sau tuổi 35, vì đẻ muộn, khung xương chậu, các dây chằng cứng khó dãn nở, dẫn đến nguy cơ đẻ khó. Tốt nhất nên đẻ ở lứa tuổi 25 đến 30, khoảng cách mỗi lần sinh ít nhất là 3 năm.
I. Chăm sóc người mẹ
Chăm sóc người phụ nữ khi có thai nhằm đảm bảo thai nghén bình thường và sinh đẻ an toàn cho cả mẹ lẫn con.
Vì thế, khi có thai người mẹ cần đến trạm y tế hoặc nhà hộ sinh đăng ký để được nhân viên y tế khám và theo dõi. Mỗi người mẹ đều có phiếu khám thai hoặc phiếu theo dõi sức khỏe tại nhà.
Bắt đầu có thai, một số người mẹ cảm thẩy mệt mỏi, chán ăn, có cảm giác buồn nôn hoặc thèm ăn những thức ăn theo sở thích riêng của từng người. Các hiện tượng đó chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, sau đó người mẹ cần chăm lo ăn uống hợp lý và giữ gìn sức khỏe để thai phát triển bình thường.
Nên thực hiện việc khám thai định kỳ, ít nhất là 3 lần trong suốt thời kỳ thai nghén. Lần thứ nhất vào ba tháng đầu để xác định chắc chắn có thai hay không; lần thứ hai vào ba tháng giữa để xem thai khỏe hay yếu để có kế hoạch bồi dưỡng cho người mẹ kịp thời; lần thứ ba vào ba tháng cuối để xem thai có phát triển bình thường không, thuận hay ngược, dự đoán trước cuộc đẻ và ngày sinh.
Nếu khám được nhiều lần hơn càng tốt, nhất là ba tháng cuối, mỗi tháng nên khám một lần. Khi khám thai, người mẹ cần được khám toàn thân: đo chiều cao, cân nặng, đếm mạch, nghe tim phổi, đo huyết áp, thử nước tiểu, phát hiện các yếu tố bất thường như cao huyết áp, thiếu máu, phù nề và các bệnh tim, gan, thận…Khám sản khoa: đo chiều cao tử cung, vòng bụng, nghe tim thai. Để phòng bệnh uốn ván cho con, người mẹ khi có thai cần được tiêm phòng uốn ván, tiêm hai lần: mũi thứ nhất và tháng thứ tư hoặc thứ sáu, mũi thứ hai cách mũi thứ nhất một tháng và trước khi đẻ ít nhất nửa tháng.
Trong thời kỳ có thai, nhất là các tháng cuối, có thể có hiện tượng “xuống máu chân”, phù nhẹ ở chân. Nếu thấy phù toàn thân kèm theo nhức đầu, mờ mắt thì có thể do nhiễm độc thai nghén, phải đi khám, thử nước tiểu, đo huyết áp, hạn chế ăn muối. Thường xuyên đi khám để tránh tai biến khi đẻ.
Khi có thai, cần hết sức thận trọng khi dùng thuốc, tiêm chủng, chiếu chụp điện vì rất dễ gây rối loạn phát triển thai nhi. Thí dụ, khi mới có thai, dùng vitamin A liều cao có thể làm thai phát triển không bình thường; dùng thuốc kháng sinh có thể làm trẻ bị điếc ngay từ khi đẻ. Một số thuốc nội tiết, an thần có thể gây sảy thai, thai chết rối loạn phát triển của thai hoặc bị bệnh sau khi đẻ. Do đó khi cần dùng thuốc, phải hỏi ý kiến thầy thuốc.
Chế độ lao động, nghỉ ngơi hợp lý, tinh thần thoải mái của người mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi. Nên lao động chân tay và trí óc một cách điều độ, tránh lao động quá sức. Vào tháng cuối, người mẹ cần được nghỉ ngơi để có thời gian chuẩn bị cho con, cho mẹ có sức khỏe tốt, tránh được tai biến khi đẻ.
II. Chế độ ăn uống của người mẹ
Chế độ ăn uống của người mẹ có vai trò quyết định đối với sự phát triển của thai nhi. Người mẹ cần nhớ rằng phải ăn uống cho mình và cả cho con trong bụng. Nếu người mẹ được ăn uống tốt, đủ các chất dinh dưỡng thì sẽ lên cân tốt. Trong suốt thời kỳ có thai người mẹ cần tăng được từ 10kg đến 12kg (trong đó 3 tháng đầu tăng 1kg, 3 tháng giữa tăng từ 4-5kg, 3 tháng cuối tăng từ 5-6 kg). Tăng cân tốt người mẹ sẽ tích lũy mỡ là nguồn dự trữ để tạo sữa khi sinh. Người mẹ bị thiếu ăn hoặc ăn kiêng không hợp lý sẽ gây nên tình trạng suy dinh dưỡng trong bào thai, trẻ đẻ ra có cân nặng dưới 2500gam.
1. Nhu cầu dinh dưỡng Khi có thai, cho con bú nhu cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn mức bình thường.
a. Tăng thêm năng lượng
Nhu cầu năng lượng của bà mẹ có thai 6 tháng cuối là 2.550 Kcal/ngày, như vậy năng lượng tăng thêm hơn người bình thường mỗi ngày là 350Kcal. Để đạt mức tăng này, người mẹ cần ăn thêm 1 đến 2 bát cơm. |
|
b. Bổ sung chất đạm và chất béo giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể.
Khi mang thai, người mẹ cần nhiều chất đạm hơn để giúp cho việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Ngoài cơm (và lương thực khác) ăn đủ no, bà mẹ có thai cần có thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo. Trước hết cần chú ý đến nguồn đạm từ các thức ăn thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng lạc. Những thức ăn này rẻ hơn thịt nhưng có lượng đạm cao, lại có chất béo giúp tăng năng lượng bữa ăn và hấp thu tốt các vitamin A, D, E…Chất đạm động vật đáng chú ý là tôm, cua, cá, ốc…ngoài ra nên có thêm thịt, trứng, sữa. Nhu cầu chất đạm cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai 3 tháng cuối là 70g/ ngày.
c. Bổ sung vitamin, chất khoáng và các yếu tố vi lượng.
Trong thời kỳ có thai cũng như cho con bú người mẹ nên ăn các loại thức ăn có nhiều vitamin C như rau, quả, các loại thức ăn có nhiều canxi, phốt pho (cá, cua, tôm, sữa…) để giúp cho sự tạo xương của thai nhi. Các thức ăn có nhiều sắt như thịt, trứng, đậu đỗ…để đề phòng thiếu máu.
| Khi có thai và cho con bú các bà mẹ cần ăn đầy đủ các dưỡng chất
| |
2. Chế độ ăn
Trong thời kỳ có thai, chế độ ăn uống rất quan trọng vị có ảnh hưởng tới sức khỏe của cả mẹ lẫn con. Không nên ăn kiêng quá mức, nhưng cũng cần chú ý:
- Không dùng thuốc, rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc..
- Giảm ăn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm.
Trong khi có thai và cho con bú, người mẹ phải ăn nhiều hơn bình thường.
Trước hết, bữa ăn cần cung cấp đầy đủ năng lượng, chủ yếu dựa vào gạo, ngô, mỳ…Các loại khoai củ cũng cung cấp năng lượng nhưng ít chất đạm, do đó chỉ nên ăn trộn, không nên ăn trừ bữa. Nên chọn loại gạo tốt, không xay xát quá trắng vì sẽ mất nhiều chất, đặc biệt là vitamin B1 chống bệnh tê phù. Các loại thức ăn động vật như thịt, cá, trứng, sữa có nhiều chất đạm quí. Nhiều loại thức ăn thực vật cũng giàu chất đạm, đó là các loại họ đậu (đậu tương, đậu xanh, đậu đen), lạc hạt, vừng. Nên ăn thêm thịt, cá hoặc đậu, lạc.
Trong 3 tháng cuối mỗi ngày nên ăn thêm 1 quả trứng.
Hằng ngày, bữa ăn của phụ nữ có thai và cho con bú không thể thiếu rau xanh là thức ăn có nhiều vitamin và chất khoáng. Các loại rau phổ biến ở nước ta như rau ngót, rau muống, xà lách…có nhiều vitamin. Các loại quả như chuối, đu đủ, cam, xoài,.. cũng rất cần cho bà mẹ, nên cố gắng ăn thêm hằng ngày.
Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng khi có thai
Thiếu máu là bệnh dinh dưỡng hay gặp ở phụ nữ có thai, đặc biệt là ở những người đẻ dày và ăn uống thiếu thốn.
Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tời sức khỏe cả mẹ lẫn con.
Đối với mẹ: thiếu máu làm cho cơ thể mệt mỏi, chóng mặt, khó thở khi gắng sức, khi đẻ có nhiều rủi ro. Tỷ lệ tử vong khi đẻ ở những người mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở bà mẹ bình thường.
Đối với con: thiếu máu thường gây tình trạng đẻ non và trẻ chết yếu.
Ăn uống hợp lý là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất. Thức ăn có nhiều chất sắt bổ máu là các loại đậu đỗ, các loại rau xanh (rau ngót, rau dền, rau khoai, rau bí…) các loại phủ tạng như tim, gan, thận…
Ngay từ khi bắt đầu có thai, tất cả các bà mẹ nên uống viên sắt, ngày uống một viên trước khi ngủ. Uống liên tục trong suốt thời kỳ có thai đến một tháng sau sinh. Để tăng quá trình chuyển hóa và hấp thu săt, cần tăng cường vitamin C có trong rau xanh và quả chín.
Nguồn: Viện Dinh dưỡng